Cùng tham gia Hội đàm phía Việt Nam có ông Đinh Hữu Phí - Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ; ông Đàm Bạch Dương - Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao; ông Bùi Thế Duy - Chánh Văn phòng Bộ; ông Dương Đức Dũng - trưởng Văn phòng KH&CN Việt Nam tại Pháp và một số thành viên khác. Tham gia Hội đàm về phía Pháp còn có Cố vấn ngoại giao Yedidia Levy-Zauberman, Trưởng ban châu Âu và quốc tế về nghiên cứu, đổi mới và giảng dạy đại học Denis Despreaux .
Tại Hội đàm hai bên đã cùng trao đổi về tình hình hợp tác KH&CN, chính sách quốc gia của hai bên về khoa học, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, phương hướng và cơ chế hợp tác trong thời gian tới. Hai bên cùng khẳng định việc sớm triển khai các chuyến khảo sát để trao đổi và tìm hiểu về khả năng hơp tác và hướng tới việc ký kết thỏa thuận hợp tác mới giữa hai Bộ như đã đề cập trong Tuyên bố Ý định hợp tác KH&CN nhằm đưa quan hệ hợp tác về KH&CN trở thành một lĩnh vực hợp tác trọng điểm trong bối cảnh Việt Nam và Pháp đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược từ năm 2013.
Phát triển kinh tế dựa trên KHCN và đổi mới sáng tạo
Tại Hội đàm, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã chia sẻ thông tin về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Hiện nay tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 0,5%-0,6% GDP, trong đó trên 60-70% từ ngân sách nhà nước, còn lại từ khu vực doanh nghiệp và vốn nước ngoài. Mặc dù, tỷ lệ này còn thấp so với các quốc gia có nền KH&CN phát triển, nhưng cũng đã thể hiện được sự nỗ lực và quan tâm của Chính phủ.
Năm 2016, cả nước có 167.746 người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển tập trung phần lớn tại các tổ chức KH&CN công lập. Cả nước có gần 2.500 tổ chức KH&CN trong đó có 02 Viện Hàn lâm và 02 Đại học quốc gia; có 03 Khu CNC ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Việt Nam có 16 Phòng Thí nghiệm trọng điểm đã được đầu tư và đưa vào khai thác sử dụng thuộc 07 lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ chế tạo máy và tự động hóa, hóa dầu, năng lượng và cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, Việt Nam có khoảng 23 vườn ươm doanh nghiệp và 10 tổ chức thúc đẩy kinh doanh.
Tổng công bố quốc tế của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu Web of Science giai đoạn 2011-2016 là 16.104 bài báo, đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII): Năm 2017, Việt Nam xếp hạng 47 (tăng 12 bậc so với 2016, 5 bậc so với 2015). Đây là thứ hạng tốt nhất Việt Nam đạt được từ trước đến nay.
Về chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI): Việt Nam cũng có sự cải thiện đáng ghi nhận về chỉ số GCI, giai đoạn 2011-2015, thứ hạng của Việt Nam dao động trong khoảng từ 56 đến 75.
Giai đoạn tới, Việt Nam tập trung chính sách đổi mới hệ thống tổ chức KH&CN, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính, phát triển các trung tâm nghiên cứu hiện đại, thí điểm thực hiện cơ chế hợp tác công - tư, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, ưu tiên phát triển công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành, phát triển thị trường KH&CN, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN.
Về đầu tư cho KH&CN, hiện Pháp dành 2,24% GDP cho nghiên cứu và phát triển và mục tiêu sẽ là 3% vào năm 2020. Hiện nay, Pháp có khoảng 575.800 người tham gia vào hoạt động nghiên cứu, mỗi năm 14.500 nghiên cứu sinh được trao bằng tiến sĩ. Pháp hiện nay đứng thứ 7 thế giới về xuất bản các ấn phẩm khoa học, đứng thứ 4 trên thế giới trong hệ thống bằng sáng chế Châu Âu.
Được biết, Pháp là nước có thế mạnh về năng lượng hạt nhân, hàng không vũ trụ, môi trường và sinh thái, nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, y tế, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin. Pháp đang xây dựng chiến lược quốc gia về nghiên cứu và đổi mới trên quy mô quốc tế nhằm tăng cường vị trí của mình trong lĩnh vực nghiên cứu.
Theo đó, Chiến lược này đã xác định 5 nội dung chính của hợp tác KH&CN quốc tế gồm: Tăng cường vai trò của Pháp và Châu Âu trong các diễn đàn khoa học toàn cầu; tăng sự hấp dẫn của Pháp cho các nhà nghiên cứu; phát triển chính sách khuyến khích nghiên cứu công – tư tầm quốc tế; tăng cường hợp tác với đối tác khoa học quốc tế; nghiên cứu phục vụ phát triển...
Chung tay hợp tác KH&CN giải quyết vấn đề toàn cầu
Hợp tác KH&CN giữa Việt Nam và Pháp đã được triển khai từ năm 1977 thông qua Hiệp định hợp tác văn hóa, khoa học và kỹ thuật ký ngày 27/4/1977. Đây là một cơ chế đối thoại để hai bên thảo luận về những hoạt động ưu tiên và những chương trình cùng được phát triển trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học và kĩ thuật.
Năm 2007, nhận thấy rõ tầm quan trọng và lợi ích của cả hai bên trong các hoạt động và dự án hợp tác về nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đào tạo thuộc nhiều lĩnh vực, đồng thời nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các chuyên gia, cơ quan và tổ chức KH&CN hai nước tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác trong việc trao đổi thông tin, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án mà hai bên cùng quan tâm, Hiệp định hợp tác KH&CN giữa hai Chính phủ đã được ký ngày 07/3/2007.
Để triển khai Hiệp định này, Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Ngoại giao Pháp đã ký Thỏa thuận về Chương trình hỗ trợ trao đổi khoa học “Hoa Sen” với mục đích nhằm phát triển các hoạt động hợp tác KH&CN xuất sắc giữa các tổ chức nghiên cứu của hai nước cũng như khuyến khích nhà nghiên cứu trẻ tham gia. Các lĩnh vực hợp tác chính: Công nghệ sinh học, y tế, vật liệu mới, công nghệ thông tin và truyền thông, toán học, vật lý và hoá học ứng dụng, công nghệ Nano, hợp chất tự nhiên, môi trường, nông nghiệp…
Nhìn lại sau 10 năm thực hiện Chương trình Hoa Sen, hai bên đã có những trao đổi khoa học về y tế, nông nghiệp, công nghệ sinh học - dược học, vật liệu mới... Việt Nam đã có nhiều cán bộ được đào tạo ngắn hạn, đào tạo cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ và có công bố quốc tế, trong nước. Nhà khoa học của Việt Nam có cơ hội được làm việc trong môi trường hiện đại, sử dụng các thiết bị nghiên cứu tiên tiến và tiếp cận với nhiều kết quả nghiên cứu mới.
Bên cạnh đó, hợp tác giữa Việt Nam và Pháp trong các lĩnh vực khác cũng được hai bên tích cực đẩy mạnh như hợp tác về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, sở hữu trí tuệ, công nghệ vũ trụ...
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh, Việt Nam khẳng định tầm quan trọng trong hợp tác KH&CN với Pháp, tiếp tục nỗ lực để thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước về KH&CN thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Theo đó, để hợp tác KH&CN hai nước ngày càng phát triển mạnh mẽ và đi vào chiều sâu, bắt kịp với Cách mạng công nghiệp 4.0, cũng như cùng chung tay giải quyết các vấn đề toàn cầu như ứng phó với biến đổi khí hậu (đặc biệt là các cam kết tại Thỏa thuận Paris trong khuôn khổ của COP21), an ninh năng lượng....
“Bên cạnh việc trao đổi khoa học như hai bên đã triển khai thông qua Chương trình Hoa Sen thời gian qua, hai bên cũng cần xem xét một cơ chế hợp tác nghiên cứu chung. Đây là Chương trình mà Việt Nam đã triển khai với nhiều quốc gia nhằm thực hiện hiệu quả các nguồn lực song phương”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho hay.
Để có thể xây dựng một cơ chế hợp tác nghiên cứu chung, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng trước mắt hai bên cần tích cực triển khai Tuyên bố Ý định hợp tác KH&CN đã ký kết năm 2016. Hai bên sẽ sớm thực hiện khảo sát luân phiên nhằm đánh giá tác động hợp tác KH&CN giữa hai nước trong 10 năm qua, thường xuyên và tích cực trao đổi để tìm ra giải pháp chung và cơ chế mới thúc đẩy hợp tác KH&CN hai nước.
Với mong muốn được học hỏi các quốc gia đi trước và có những thành tựu trong nghiên cứu khoa học, Việt Nam mong muốn được hợp tác với Pháp trong các lĩnh vực là thế mạnh của Pháp như: Năng lượng hạt nhân, hàng không vũ trụ, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, y tế, nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm…
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh tin tưởng rằng, với sự nỗ lực của cả hai bên, hợp tác KH&CN giữa hai nước một lần nữa sẽ khởi sắc và ghi được nhiều dấu ấn thành công, góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế bền vững của hai nước.
Bộ trưởng Bộ Giảng dạy Đại học, Nghiên cứu và Đổi mới Pháp Frédérique Vidal chia sẻ, Pháp sẽ tập trung hỗ trợ Việt Nam hợp tác nghiên cứu trong trường đại học, hỗ trợ khởi nghiệp và khuyến khích các nhà khoa học trẻ tham gia nghiên cứu.
Pháp là một trong những quốc gia lớn trong Liên minh Châu Âu, có tiềm lực mạnh về KH&CN và là một trong những địa bàn ưu tiên về hợp tác KH&CN của Việt Nam. Trong thời gian tới hai bên tiếp tục thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực ứng dụng và chuyển giao công nghệ, chính sách KHCN và đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và kết nối doanh nghiệp, Sở hữu trí tuệ, Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và Năng lượng nguyên tử.